Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)

Thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả nhất hiện nay. Tuy nhiên, khả năng sinh con khỏe mạnh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Thụ tinh trong ống nghiệm là gì?

Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) là một quy trình phức tạp được sử dụng để hỗ trợ sinh sản hoặc ngăn ngừa các vấn đề di truyền.

Trong quá trình thụ tinh ống nghiệm, trứng trưởng thành được lấy từ buồng trứng và sau đó được thụ tinh với tinh trùng trong phòng thí nghiệm. Sau đó, trứng đã thụ tinh (phôi) được chuyển vào trong tử cung để mang thai. Một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm hoàn chỉnh mất khoảng 3 tuần. Đôi khi các bước được chia thành nhiều phần khác nhau và quá trình này có thể kéo dài lâu hơn.

Thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả nhất hiện nay. Có thể sử dụng trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm hoặc cũng có thể dùng trứng, tinh trùng hay phôi từ một người hiến tặng. Trong những trường hợp mà người vợ không thể tự mang thai thì có thể dùng phương pháp mang thai hộ, có nghĩa là phôi được cấy vào tử cung của một người phụ nữ khác.

Khả năng sinh con khỏe mạnh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tuổi tác và nguyên nhân gây vô sinh. Quá trình thụ tinh trong ống nghiệm có thể tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc. Ngoài ra, nếu có nhiều hơn một phôi thai được chuyển vào tử cung thì phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm có thể dẫn đến việc mang đa thai.

Mục đích

Thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp được sử dụng để điều trị vô sinh, hay nói cách khác là hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn hoặc ngăn ngừa các vấn đề di truyền. Trong trường hợp lý do là vô sinh hiếm muộn thì trước tiên nên thử các lựa chọn ít xâm lấn hơn trước khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, ví dụ như dùng các loại thuốc hỗ trợ sinh sản để kích thích buồng trứng tăng sản xuất trứng hoặc bơm tinh trùng vào buồng tử cung – phương pháp đưa tinh trùng trực tiếp vào tử cung ngay sau thời điểm rụng trứng để thụ tinh.

Đôi khi, thụ tinh trong ống nghiệm được sử dụng làm phương pháp chính để điều trị vô sinh cho ở phụ nữ trên 40 tuổi. Phương pháp này cũng có thể được thực hiện cho các cặp vợ chồng có vấn đề về sức khỏe ảnh hưởng đến khả năng sinh sản, ví dụ như:

  • Ống dẫn trứng bị tổn thương hoặc tắc nghẽn: Tổn thương hoặc tắc nghẽn ống dẫn trứng khiến trứng khó gặp được tinh trùng hoặc phôi thai khó đi đến tử cung.
  • Rối loạn phóng noãn: Nếu buồng trứng không rụng trứng đều đặn hoặc hoàn toàn không rụng trứng thì khả năng thụ thai thành công sẽ thấp hơn hoặc không thể thụ thai.
  • Lạc nội mạc tử cung: Lạc nội mạc tử cung là tình trạng xảy ra mô niêm mạc tử cung phát triển ở những nơi khác ở bên ngoài tử cung. Vấn đề này ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng, tử cung và ống dẫn trứng.
  • U xơ tử cung: U xơ là khối u lành tính hình thành ở thành tử cung và thường xảy ra ở phụ nữ trong độ tuổi 30 - 40. Khối u xơ có thể cản trở trứng sau khi thụ tinh làm tổ trong tử cung.
  • Từng thắt ống dẫn trứng hoặc cắt ống dẫn trứng: Ở những phụ nữ đã từng thắt ống dẫn trứng - một biện pháp triệt sản trong đó ống dẫn trứng bị cắt bỏ hoặc được thắt lại để tránh mang thai vĩnh viễn – nhưng sau đó lại muốn thụ thai thì thụ tinh trong ống nghiệm là một giải pháp thay thế cho việc tháo hay nối lại ống dẫn trứng.
  • Suy giảm chức năng tinh trùng hoặc giảm sản xuất tinh trùng: Nồng độ tinh trùng dưới mức trung bình, tinh trùng di chuyển yếu (di động kém) hoặc những bất thường về kích thước và hình dạng có thể khiến tinh trùng khó thụ tinh với trứng. Nếu phát hiện thấy những bất thường trong tinh dịch thì người chồng nên đi khám bác sĩ chuyên khoa để xác định vấn đề và được tư vấn những biện pháp khắc phục.
  • Vô sinh không rõ nguyên nhân: Vô sinh không rõ nguyên nhân hay vô sinh vô căn có nghĩa là không tìm ra được vấn đề tiềm ẩn gây vô sinh.
  • Rối loạn di truyền: Nếu con sinh ra có nguy cơ mắc một rối loạn di truyền từ người mẹ hoặc người bố thì nên làm xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - một kỹ thuật có liên quan đến thụ tinh trong ống nghiệm, được thực hiện trước khi chuyển phôi. Sau khi trứng được lấy từ buồng trứng và thụ tinh, phôi sẽ được kiểm tra để tìm các vấn đề di truyền nhất định, mặc dù không phải vấn đề di truyền nào cũng đều có thể được tìm thấy trong quá trình này. Khi đã xác nhận không có bất cứ vấn đề gì thì phôi sẽ được chuyển vào trong tử cung.
  • Bảo tồn khả năng sinh sản khi mắc ung thư hoặc các vấn đề sức khỏe khác: Các phương pháp điều trị ung thư, chẳng hạn như xạ trị hoặc hóa trị có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Trong những trường hợp này, thụ tinh trong ống nghiệm là một trong các lựa chọn để bảo tồn khả năng sinh sản. Phụ nữ có thể lấy trứng từ buồng trứng và đông lạnh ở trạng thái chưa được thụ tinh để sử dụng sau này. Hoặc trứng cũng có thể được thụ tinh và sau đó đông lạnh phôi để cấy vào tử cung trong tương lai. Những phụ nữ có vấn đề ở tử cung và không thể tự mang thai hoặc việc mang thai có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe có thể chọn phương pháp mang thai hộ. Trong trường hợp này, trứng của người vợ được thụ tinh với tinh trùng của người chồng và sau đó, phôi được đặt vào tử cung của người mang thai hộ.

Rủi ro

Một số rủi ro của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm gồm có:

  • Mang đa thai: Thụ tinh trong ống nghiệm làm tăng khả năng mang đa thai nếu nhiều hơn một phôi được chuyển vào tử cung. Khi mang đa thai, nguy cơ chuyển dạ sớm và sinh con nhẹ cân sẽ cao hơn so với mang đơn thai.
  • Sinh non và trẻ sinh ra bị nhẹ cân: Nghiên cứu cho thấy rằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm làm tăng nguy cơ sinh non và trẻ sinh ra bị nhẹ cân.
  • Hội chứng quá kích buồng trứng: Tiêm các loại thuốc hỗ trợ sinh sản, chẳng hạn như hCG (gonadotropin màng đệm ở người), để kích thích rụng trứng có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng – một tình trạng mà buồng trứng bị sưng và đau. Các triệu chứng thường kéo dài một tuần, gồm có đau bụng dưới, chướng bụng, buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy. Tuy nhiên, nếu như thụ thai thành công thì các triệu chứng này có thể kéo dài nhiều tuần. Một số phụ nữ còn bị một dạng hội chứng quá kích buồng trứng nghiêm trọng hơn gây tăng cân nhanh chóng và khó thở.
  • Sảy thai: Tỷ lệ sảy thai ở những phụ nữ mang thai bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cũng tương đương với những phụ nữ mang thai tự nhiên (khoảng 15% đến 25%) nhưng tỷ lệ này tăng lên theo độ tuổi của người mẹ.
  • Các rủi ro của thủ thuật chọc hút trứng: Sử dụng kim chọc hút để lấy trứng từ buồng trứng có thể gây chảy máu, nhiễm trùng và tổn thương ruột, bàng quang hoặc mạch máu. Nếu sử dụng thuốc an thần hay gây mê toàn thân thì sẽ còn có một số rủi ro khác như chóng mặt, buồn nôn, nhức cơ,…
  • Mang thai ngoài tử cung: Khoảng 2 đến 5% phụ nữ sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm bị mang thai ngoài tử cung, có nghĩa là khi trứng sau khi thụ tinh làm tổ ở bên ngoài tử cung, thường là trong ống dẫn trứng. Phôi thai không thể tồn tại được bên ngoài tử cung và do đó, không thể duy trì thai kỳ cho đến khi sinh. Nếu không can thiệp, thai ngoài tử cung có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người mẹ.
  • Dị tật bẩm sinh: Người mẹ đã lớn tuổi tại thời điểm mang thai là yếu tố chính làm tăng nguy cơ gây ra dị tật bẩm sinh, bất kể thụ thai bằng phương pháp nào, thụ tinh trong ống nghiệm hay thụ thai tự nhiên. Cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định xem những đứa trẻ được thụ thai bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm có nguy cơ mắc một số dị tật bẩm sinh cao hay so với thụ thai tự nhiên hay không.
  • Ung thư: Có nghiên cứu đã cho thấy một số loại thuốc được sử dụng để kích thích sự trưởng thành của trứng có thể làm tăng nguy cơ hình thành một loại khối u ác tính trong buồng trứng. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để xác nhận điều này.
  • Căng thẳng: Quá trình thụ tinh trong ống nghiệm có thể mất rất nhiều thời gian và tiền bạc, gây kiệt quệ về tài chính và khiến cho các cặp vợ chồng mệt mỏi cả về thể chất lẫn tinh thần.

Chuẩn bị

Tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tuổi tác và tình trạng sức khỏe. Căn cứ vào tình hình thực tế mà bác sĩ sẽ dự đoán khả năng thành công cụ thể.

Trước khi bắt đầu một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, các cặp vợ chồng sẽ cần thực hiện nhiều xét nghiệm khác nhau, gồm có:

  • Kiểm tra dự trữ buồng trứng: Để xác định số lượng và chất lượng trứng, người vợ sẽ cần làm xét nghiệm đo nồng độ hormone kích thích nang trứng (FSH), estradiol (estrogen) và AMH (anti-mullerian hormone) trong máu trong vòng vài ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt. Kết quả các xét nghiệm này và hình ảnh siêu âm buồng trứng sẽ giúp dự đoán mức độ đáp ứng của buồng trứng với thuốc hỗ trợ sinh sản.
  • Phân tích tinh dịch: Bước này có thể được thực hiện ngay trong quá trình đánh giá khả năng sinh sản ban đầu hoặc tiến hành ngay trước khi bắt đầu chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm.
  • Tầm soát bệnh truyền nhiễm: Hai vợ chồng đều sẽ được làm xét nghiệm các bệnh truyền nhiễm, gồm có cả HIV.
  • Thực hành (mô phỏng) chuyển phôi: Bác sĩ có thể tiến hành chuyển phôi giả để xác định độ sâu của buồng tử cung và kỹ thuật phù hợp để đưa phôi thật sau này vào tử cung.
  • Khám tử cung: Bác sĩ sẽ kiểm tra niêm mạc tử cung trước khi bắt đầu thụ tinh trong ống nghiệm. Các phương pháp được thực hiện gồm có siêu âm bơm nước buồng tử cung (dung dịch nước muối được bơm qua cổ tử cung vào trong tử cung), siêu âm truyền thống để thu hình ảnh của buồng tử cung hoặc nội soi buồng buồng tử cung, trong đó một ống nhỏ, dài và linh hoạt có gắn camera được đưa qua âm đạo và cổ tử cung vào trong tử cung để bác sĩ quan sát hình ảnh bên trong

Trước khi bắt đầu chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, các cặp vợ chồng cần cân nhắc các câu hỏi quan trọng dưới đây:

  1. Bao nhiêu phôi sẽ được chuyển? Số lượng phôi được chuyển vào tử cung thường phụ thuộc vào độ tuổi và số lượng trứng thu được. Vì tỷ lệ phôi làm tổ ở phụ nữ lớn tuổi thường thấp hơn so với phụ nữ trẻ nên sẽ phải chuyển nhiều phôi hơn, ngoại trừ những trường hợp sử dụng trứng hiến tặng hoặc phôi đã được xét nghiệm di truyền.
  2. Bác sĩ phải tuân thủ theo các hướng dẫn cụ thể để ngăn ngừa mang đa thai từ 3 thai trở lên và ở một số quốc gia, luật pháp có quy định số lượng phôi tối đa được chuyển khi thụ tinh trong ống nghiệm. Các cặp vợ chồng và bác sĩ phải thống nhất về số lượng phôi sẽ được chuyển trước khi tiến hành.
  3. Nếu có phôi thừa thì sẽ xử lý ra sao? Các phôi đảm bảo chất lượng nhưng chưa được sử dụng đến có thể được đông lạnh và lưu trữ để sử dụng trong tương lai. Trong hầu hết các trường hợp thì phôi sẽ vẫn sống sót sau quá trình đông lạnh và rã đông nhưng đôi khi, phôi không còn sử dụng được nữa. Phương pháp đông lạnh có thể giúp cho các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm trong tương lai đỡ tốn kém hơn và ít xâm lấn hơn. Các cặp vợ chồng có thể tặng phôi chưa sử dụng cho một cặp vợ chồng khác hoặc cơ sở nghiên cứu hoặc cũng có thể quyết định loại bỏ phôi dư thừa.
  4. Nếu mang đa thai thì sao? Nếu nhiều hơn một phôi thai được chuyển vào tử cung, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm có thể dẫn đến đa thai và gây ra những nguy cơ về sức khỏe cho cả người mẹ lẫn thai nhi. Trong một số trường hợp sẽ cần giảm số phôi để giúp cho người phụ nữ sinh ít con hơn và giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, đây là một quyết định quan trọng cần cân nhắc kỹ lưỡng vì có liên quan đến vấn đề đạo đức, tình cảm và tâm lý.
  5. Đã cân nhắc các biến chứng tiềm ẩn hay vấn đề của việc sử dụng trứng, tinh trùng hoặc phôi hiến tặng hoặc nhờ người mang thai hộ hay chưa? Các cặp vợ chồng sẽ cần hoàn thành một số thủ tục cần thiết trước khi nhờ người mang thai hộ.

Quy trình thực hiện

Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm gồm có các bước là kích thích buồng trứng, chọc hút trứng, lấy tinh trùng, thụ tinh và chuyển phôi. Một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm thường mất khoảng 2 đến 3 tuần và có thể cần thực hiện nhiều hơn một chu kỳ.

Kích thích rụng trứng

Nếu như sử dụng trứng của chính người vợ để thụ tinh trong ống nghiệm thì trước khi bắt đầu tiến hành, người vợ sẽ bắt đầu dùng một số loại hormone để kích thích buồng trứng sản xuất nhiều trứng hơn thay vì chỉ một trứng mỗi tháng như bình thường. Lý do cần có nhiều trứng là vì một số trứng sẽ không được thụ tinh hoặc không thể phát triển bình thường sau khi thụ tinh.

Một số loại thuốc thường được sử dụng gồm có:

  • Thuốc kích thích buồng trứng: Để kích thích buồng trứng thì có thể dùng thuốc tiêm có chứa hormone kích thích nang trứng (FSH), hormone tạo hoàng thể (LH) hoặc kết hợp cả hai. Những loại thuốc này kích thích nhiều trứng phát triển cùng một lúc.
  • Thuốc kích thích tế bào trứng (noãn bào) trưởng thành: Khi các nang trứng đã sẵn sàng cho bước lấy trứng - thường là sau 8 đến 14 ngày – thì sẽ phải sử dụng hCG hoặc các loại thuốc khác để giúp trứng trưởng thành.
  • Thuốc ngăn rụng trứng sớm: Những loại thuốc này ngăn buồng trứng phóng trứng đang phát triển quá sớm.
  • Thuốc làm dày niêm mạc tử cung: Vào ngày lấy trứng hoặc vào thời điểm chuyển phôi, bác sĩ có thể sẽ chỉ định bổ sung progesterone để làm cho niêm mạc tử cung dày lên và giúp cho phôi thai dễ dàng bám vào làm tổ hơn.

Bác sĩ sẽ chỉ định loại thuốc cần sử dụng tùy vào tình trạng của mỗi người và từng thời điểm trong chu kỳ thụ tinh ống nghiệm.

Thông thường sẽ phải kích thích buồng trứng trong 1 – 2 tuần trước khi trứng đủ trưởng thành và có thể chọc hút. Để xác định thời điểm có thể lấy trứng, bác sĩ sẽ thực hiện các biện pháp kiểm tra sau:

  • Siêu âm qua đường âm đạo: phương pháp này cho phép quan sát hình ảnh buồng trứng để theo dõi sự phát triển của các nang trứng – các túi nhỏ chứa chất lỏng nơi trứng phát triển.
  • Xét nghiệm máu: để đánh giá đáp ứng với các loại thuốc kích thích buồng trứng. Nồng độ estrogen thường tăng lên khi các nang trứng phát triển và nồng độ progesterone vẫn duy trì ở mức thấp cho đến sau khi rụng trứng.

Đôi khi cần phải dừng chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm trước khi chọc hút trứng vì một trong những lý do sau:

  • Không đủ số lượng nang trứng phát triển
  • Rụng trứng sớm
  • Quá nhiều nang trứng phát triển, gây nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng
  • Các vấn đề sức khỏe khác

Nếu phải dừng thì bác sĩ sẽ đổi thuốc hoặc điều chỉnh liều lượng thuốc để các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm sau diễn ra thuận lợi hơn. Đôi khi, nếu như việc sử dụng trứng của chính mình không khả thi thì cần cân nhắc dùng trứng từ người hiến tặng.

Chọc hút trứng

Bước chọc hút trứng có thể được thực hiện sau từ 34 đến 36 giờ kể từ mũi tiêm cuối và trước khi rụng trứng.

Trước khi bắt đầu quá trình chọc hút trứng, người vợ sẽ được gây mê nên không còn cảm thấy đau đớn.

Bước chọc hút trứng được thực hiện dưới sự hướng dẫn của siêu âm qua đường âm đạo. Một đầu dò siêu âm được đưa vào trong âm đạo để xác định các nang trứng. Sau đó, một cây kim mảnh được đưa vào qua âm đạo vào các nang để lấy trứng.

Nếu không thể tiếp cận buồng trứng bằng kỹ thuật siêu âm qua đường âm đạo thì có thể chuyển sang kỹ thuật siêu âm qua thành bụng để hướng dẫn kim chọc hút.

Trứng được lấy ra khỏi nang bằng một cây kim nối với dụng cụ hút. Nhiều trứng có thể được lấy ra trong khoảng 20 phút.

Sau khi chọc hút trứng có thể sẽ xảy ra hiện tượng đau ở bụng dưới kèm theo cảm giác chướng bụng hoặc căng tức.

Trứng trưởng thành sau khi lấy ra được tách khỏi dịch nang trứng, đặt vào một chiếc đĩa cấy đặc biệt và đưa vào lồng ấp. Những trứng trưởng thành khỏe mạnh sẽ được trộn với tinh trùng để thụ tinh. Tuy nhiên, không phải toàn bộ trứng đều sẽ được thụ tinh thành công.

Lấy tinh trùng

Nếu sử dụng tinh trùng của chính người chồng thì mẫu tinh dịch sẽ được lấy ngay trong ngày chọc hút trứng. Người chồng có thể tự lấy tinh trùng hoặc dùng các phương pháp khác, chẳng hạn như chọc hút tinh trùng từ mào tinh - sử dụng kim hoặc tiểu phẫu để lấy tinh trùng trực tiếp từ tinh hoàn. Hoặc cũng có thể dùng tinh trùng của người hiến tặng. Sau khi lấy, tinh trùng được tách ra khỏi tinh dịch trong phòng thí nghiệm và đem thụ tinh với trứng.

Thụ tinh

Có hai phương pháp thụ tinh phổ biến là:

  • Thụ tinh thông thường: Trong quá trình thụ tinh thông thường, tinh trùng khỏe mạnh và trứng trưởng thành được trộn cùng nhau.
  • Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI): Trong kỹ thuật này, một tinh trùng khỏe mạnh duy nhất được tiêm trực tiếp vào một trứng trưởng thành. ICSI thường được sử dụng khi chất lượng hoặc số lượng tinh trùng có vấn đề hoặc nếu các lần thụ tinh trước đó đều không thành công.

Trong một số trường hợp nhất định, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện các biện pháp dưới đây trước khi chuyển phôi:

  • Kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng (assisted hatching – AH): Khoảng 5 đến 6 ngày sau khi thụ tinh, phôi thai sẽ "thoát" ra từ lớp màng trong suốt bao quanh (zona pellucida) để bám vào niêm mạc tử cung. Ở những phụ nữ lớn tuổi hoặc đã từng thụ tinh trong ống nghiệm nhiều lần nhưng đều thất bại, bác sĩ thường sẽ khuyên nên thực hiện kỹ thuật hỗ trợ phôi thoát màng – chủ động tạo một lỗ trên lớp màng bao quanh phôi ngay trước khi chuyển để giúp phôi thoát ra và làm tổ ở niêm mạc tử cung. Kỹ thuật này cũng rất có ích đối với các trường hợp sử dụng trứng hoặc phôi đã đông lạnh vì quá trình bảo quản có thể làm cứng lớp màng bao.
  • Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ: Phôi được đưa vào trong tủ ấm để phát triển cho đến khi đạt đến giai đoạn có thể lấy ra một mẫu nhỏ để làm xét nghiệm các bệnh di truyền hoặc kiểm tra số lượng nhiễm sắc thể chính xác, thường là sau 5 đến 6 ngày. Các phôi không chứa gen hoặc nhiễm sắc thể bất thường sẽ được chuyển vào tử cung. Mặc dù xét nghiệm di truyền trước khi cấy phôi có thể làm giảm khả năng đứa trẻ sinh ra mắc phải các vấn đề di truyền nhưng không thể loại bỏ được hoàn toàn nguy cơ. Do đó, người mẹ vẫn cần làm xét nghiệm sàng lọc trước khi sinh.

Chuyển phôi

Bước chuyển phôi thường diễn ra từ 2 đến 5 ngày sau khi chọc hút trứng.

  1. Người phụ nữ sẽ được gây mê nhẹ. Thủ thuật này thường không đau nhưng sẽ hơi thấy co thắt ở bụng dưới.
  2. Bác sĩ đưa một ống dài, mảnh gọi là ống thông vào âm đạo, qua cổ tử cung vào trong tử cung.
  3. Một ống tiêm đựng chất lỏng chứa một hoặc nhiều phôi thai được gắn vào đầu của ống thông.
  4. Sau đó phôi được đưa vào trong tử cung.

Nếu thành công, phôi thai sẽ làm tổ trong niêm mạc tử cung. Điều này diễn ra trong vòng khoảng 6 đến 10 ngày kể từ khi chọc hút trứng.

Sau khi chuyển phôi

Có thể sinh hoạt trở lại bình thường ngay sau khi chuyển phôi. Tuy nhiên, lúc này buồng trứng vẫn đang bị sưng nên cần tránh các hoạt động mạnh có thể gây khó chịu.

Một số hiện tượng có thể gặp phải trong thời gian này gồm có:

  • Âm đạo tiết ra một lượng nhỏ chất dịch trong suốt hoặc có lẫn ít máu do quá trình chuyển phôi
  • Ngực căng do nồng độ estrogen tăng cao
  • Chướng bụng nhẹ
  • Hơi đau bụng dưới
  • Táo bón

Nếu cảm thấy đau mức độ vừa hoặc đau đớn dữ dội sau khi chuyển phôi thì cần đến gặp bác sĩ ngay để kiểm tra các vấn đề như nhiễm trùng, xoắn buồng trứng và hội chứng quá kích buồng trứng nghiêm trọng.

Kết quả

Khoảng 12 ngày đến 2 tuần sau khi chọc hút trứng, người vợ cần quay lại làm xét nghiệm máu để thử thai.

  • Nếu như đã mang thai thì sẽ bắt đầu khám thai định kỳ theo lịch của bác sĩ để theo dõi sự phát triển cua thai nhi cho tới ngày sinh.
  • Nếu không mang thai thì sẽ ngừng dùng progesterone và có kinh nguyệt trong vòng một tuần tiếp theo. Nếu như vẫn không có kinh nguyệt hoặc bị chảy máu âm đạo bất thường thì cần phải đi khám. Nếu vẫn muốn thử thụ tinh trong ống nghiệm thì bác sĩ sẽ tư vấn các biện pháp để cải thiện cơ hội mang thai thành công trong lần tiếp theo.

Khả năng sinh con khỏe mạnh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, gồm có:

  • Tuổi của người mẹ: Tuổi càng trẻ thì cơ hội mang thai thành công và sinh con khỏe mạnh bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm càng cao và có thể sử dụng trứng của chính mình. Những phụ nữ từ 41 tuổi trở lên thường được khuyên nên sử dụng trứng hiến tặng để tăng khả năng thành công.
  • Trạng thái phôi: Tại thời điểm tiến hành chuyển phôi, phôi càng phát triển thì tỷ lệ mang thai thành công càng cao. Tuy nhiên, không phải tất cả các phôi đều có thể sống sót sau quá trình phát triển.
  • Tiền sử sinh sản: Những phụ nữ đã từng sinh con sẽ có khả năng mang thai thành công nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cao hơn so với những phụ nữ chưa từng sinh nở. Nếu từng thụ tinh trong ống nghiệm trước đây nhưng thất bại thì tỷ lệ thành công của các lần sau cũng sẽ không cao.
  • Nguyên nhân dẫn đến vô sinh: Những phụ nữ có dự trữ buồng trứng bình thường tất nhiên sẽ có cơ hội mang thai thành công cao hơn khi thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung nghiêm trọng sẽ có khả năng mang thai thành công thấp hơn so với những người bị vô sinh không rõ nguyên nhân.
  • Các yếu tố về lối sống: Phụ nữ hút thuốc lá thường có ít trứng hơn trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm và dễ bị sảy thai hơn. Hút thuốc có thể làm giảm 50% khả năng thành công của phương pháp này. Béo phì cũng làm giảm cơ hội mang thai và sinh con khỏe mạnh. Lạm dụng rượu, sử dụng chất kích thích, tiêu thụ quá nhiều caffeine và một số loại thuốc cũng sẽ gây hại đến khả năng sinh sản.

  Ý kiến bạn đọc

Tin liên quan

Tính an toàn của thành phần thimerosal trong vắc-xin

Có ý kiến cho rằng chất thimerosal - một thành phần trong vắc xin có thể gây ra chứng tự kỷ. Điều này có đúng không?

Đau âm hộ mãn tính

Khi gặp hiện tượng khó chịu bất thường ở vùng âm hộ thì hãy đi khám bác sĩ phụ khoa. Đừng vì ngại ngùng mà để vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD)

STD không phải lúc nào cũng biểu hiện triệu chứng. Vì thế nên nhiều người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục trong suốt một thời gian dài mà không hề hay biết và tiếp tục lây sang người khác.

Đau vùng chậu mãn tính ở phụ nữ

Đau vùng chậu mãn tính có thể là do nhiều nguyên nhân gây ra. Đó có thể là triệu chứng của một bệnh hoặc cũng có thể là một vấn đề riêng biệt.

Bệnh lây truyền qua đường tình dục chlamydia

Chlamydia chủ yếu xảy ra ở phụ nữ trẻ, nhưng cũng có thể xảy ra ở cả nam giới và phụ nữ ở mọi nhóm tuổi. Bệnh này không khó điều trị, nhưng nếu không được điều trị thì có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây