Siêu âm vùng cổ dự đoán ai sẽ bị đột quỵ
Hai cuộc thử nghiệm chẩn đoán hình ảnh có thể giúp xác định những người bị hẹp động mạch ở cổ sẽ cần giải phẫu để giảm nguy cơ đột quỵ trong tương lai. Sự thu hẹp các động mạch cảnh ở cổ được gọi là hẹp động mạch cảnh không triệu chứng (ACS). "Không triệu chứng" có nghĩa là bệnh nhân không gặp bất kỳ triệu chứng nào.
Các động mạch cảnh ở cổ dẫn máu lên não. Chúng thường bị thu hẹp khi mảng xơ vữa phát triển trong lớp lót bên trong của động mạch.
Có một số điều không chắc chắn trong cộng đồng y tế trong cách xác định tốt nhất những người bị ACS có nguy cơ cao bị tai biến mạch máu não và cần phẫu thuật hoặc đặt stent để nong động mạch cảnh, điều này khác với các phương pháp điều trị bằng thuốc.
Trong một nghiên cứu kéo dài 2 năm thực hiện trên 435 người bị hẹp động mạch cảnh nặng, các nhà nghiên cứu đã sử dụng siêu âm để đánh giá chất lượng và thành phần của mảng bám trong động mạch cảnh và siêu âm Doppler để tìm kiếm sự có mặt của các cục máu đông hoặc các hạt nhỏ gọi là microemboli có thể bị vỡ thoát khỏi động mạch và đi đến não, gây ra đột quỵ. Được biết nghiên cứu này đã được đăng trên tạp chí Neurology.
Xác định nguy cơ đột quỵ
Trong nghiên cứu, có 10 người bị đột qụy và 20 người bị đột quỵ nhồi máu não hoặc cơn thiếu máu não thoáng qua TIA. Những người có mảng xơ vữa trong động mạch cảnh của họ đã bị tai biến mạch máu não nhiều hơn 6 lần so với những người không có loại mảng bám này. Các mảng xơ vữa có nhiều chất béo được coi là nguy hiểm hơn.
Nghiên cứu phát hiện ra rằng, những người có cả mảng bám có mỡ và cả các dấu hiệu lấp mạch vi thể (microemboli) có nguy cơ bị tai biến cao hơn 10 lần so với những người không có cả hai dấu hiệu trên.
Theo nghiên cứu mới này, nguy cơ đột quỵ trong tương lai là 8% mỗi năm đối với những người có kết quả dương tính trên cả hai xét nghiệm sàng lọc. Ngược lại, nguy cơ tai biến mạch máu não trong tương lai thấp hơn 1% mỗi năm đối với những người có kết quả âm tính trên cả hai xét nghiệm. Các phát hiện được duy trì ngay cả khi đã xét đến các yếu tố nguy cơ khác như cao huyết áp, bệnh tiểu đường, hút thuốc, và bệnh mạch máu. Hầu hết các bệnh nhân sẽ không có triệu chứng và không bị đột quỵ, nhưng khó xác định được những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất và phải trải qua phẫu thuật. Nếu bạn có nguy cơ cao bị tai biến trong tương lai, thì chỉ dùng thuốc vẫn chưa đủ.
Nếu những nghiên cứu khác cũng phát hiện ra những kết qủa này thì nó có thể thay đổi cách ACS được đánh giá và điều trị, ông nói. Khi đó, bằng cách sử dụng siêu âm để xem xét thành phần mảng xơ vữa sẽ là biện pháp phổ biến. Tuy nhiên, đối với thử nghiệm siêu âm Doppler thì thời gian và kết quả có thể thay đổi dựa trên kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm.
Những người này có bệnh nhưng không có triệu chứng nào, vì vậy điều này là để phân loại. Bác sĩ muốn lựa chọn bệnh nhân có nguy cơ đột quỵ cao nhất để thực hiện phẫu thuật. Chúng ta cần biết thành phần của mảng xơ vữa và hình dạng của nó như thế nào và tiềm năng thuyên tắc mạch.
Tiềm năng sàng lọc bệnh đột quỵ
Itzhak Kronzon, bác sĩ tim mạch tại Bệnh viện Lenox Hill ở New York, cho biết việc đánh giá cho bệnh nhân bị hẹp tắc động mạch cảnh ACS bắt đầu bằng việc xem xét kỹ lưỡng bệnh lý bao gồm khám thần kinh.
Nếu bạn có ACS, khả năng đột quỵ là nhỏ, nhưng nếu bạn bị đột qụy thì nó sẽ tàn phá bạn
Siêu âm Doppler không phải là một phần tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ tai biến mạch máu não ở những người bị ACS. Cần phải nghiên cứu thêm trước khi phương pháp này được đưa vào áp dụng thực tiễn.
Trong một bài xã luận đi kèm, Lars Marquardt - Đại học Erlangen-Nuremberg ở Đức, viết rằng nguy cơ đột quỵ chung ở những người bị ACS tương đối thấp và đã giảm do kiểm soát tốt hơn thông qua mức cholesterol và thuốc huyết áp cao trong những năm gần đây.
Nếu những kỹ thuật như được trình bày bởi nhà nghiên cứu Topekian được xác nhận là có khả năng phát hiện được những bệnh nhân có nguy cơ đột quỵ cao hơn mức bình thường, thì việc sàng lọc bệnh nhân bằng kỹ thuật này là cần thiết.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn